Ở Tây Bắc, vào những ngày gần Tết đến hết tháng Giêng, nhà nào nhà nấy cũng thịt treo đầy bếp, thóc chất đầy bồ. Người người cũng được nghỉ ngơi để chuẩn bị cho một mùa vụ mới sắp tới. Thời điểm này chính là lúc mà nam thanh nữ tú hướng về tiếng gọi tình yêu, xây dựng mái ấm gia đình. Nếu như những đồng bào khác ở Tây Bắc có tục chọc sàn, ngủ thăm thì các chàng trai Dao Đỏ lại có tục kéo vợ. Tục này còn được gọi là tục bắt vợ. Tục này diễn ra như thế nào là điều mà rất nhiều người thắc mắc. Nếu bạn cũng đăng tò mò về tục kỳ lạ này thì đừng bỏ qua bài viết dưới đây nhé!
Giới thiệu về đồng bào Dao ở Việt Nam
Người Dao là một trong số 54 dân tộc tại Việt Nam, với số dân là 891.151 người năm 2019 [1]. Ở Việt Nam, người Dao tuy có dân số không đông nhưng các bản làng của họ trải rộng tại các miền rừng núi phía Bắc (Cao Bằng, Hà Giang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Tuyên Quang,…) đến một số tỉnh trung du như: Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Hà Nội và miền biển Quảng Ninh (người Dao Thanh Y).
Ngoài ra, người Dao còn chia ra thành nhiều nhóm khác nhau, với những nét riêng về phong tục tập quán mà biểu hiện rõ rệt nhất là trên trang phục của họ như: Dao Đỏ, Dao Quần Chẹt, Dao Thanh Y, Dao Áo dài, Dao Quần Trắng,… Mặc dù, họ có nhiều nhóm người khác nhau.
Nguồn gốc của tục kéo vợ
Trời Tây Bắc vào xuân, thiên nhiên giao hòa, cây cối nảy lộc. Cũng là lúc những chàng trai Dao Đỏ hòa vào điệp khúc của tình yêu; đang tràn ngập trên khắp núi đồi với tục lệ riêng của người Dao Đỏ: “Kéo và bắt người mình thương về làm………vợ”. Từ những ngày giáp Tết đến hết tháng Giêng, khi nhà nào thóc cũng đã đầy bồ, thịt đã treo kín trên ránh bếp. Người người được nghỉ ngơi chuẩn bị cho vụ mùa năm tới thì cũng là lúc trai gái đến tuổi trưởng thành hướng theo tiếng gọi của tình yêu đôi lứa. Họ bắt đầu lo chuyện xây dựng mái ấm gia đình.

Truyện kể rằng, ngày xưa có một chàng trai nhà nghèo đem lòng say mê một cô gái xinh đẹp con nhà giàu. Không đủ bạc trắng, không có trâu, dê để cưới hỏi cô, chàng chỉ biết thầm thương trộm nhớ. Còn cô gái thì hoàn toàn không quan tâm để ý gì tới chàng. Thế rồi một ngày kia, tấm chân tình của chàng đã thấu tới thần, Phật và đấng linh thiêng. Thần đã báo mộng cho chàng rằng hãy làm sao bắt cóc được cô gái về. Nhân duyên sẽ thành. Chàng làm theo và đã bắt được người mình yêu về giữ trong nhà mình. Tính tình ương ngạnh của cô gái đã được tình cảm chân thành của chàng cảm hóa. Họ yêu nhau, sống với nhau, sinh con đẻ cái và sống đến trọn đời.
Tục bắt vợ của người Dao Đỏ đã có từ xa xưa
Chuyện xưa thể hiện ước mơ của những người nghèo túng không có khả năng trả nổi tiền cưới để lấy được người mình yêu. Tính “hợp lý” của câu chuyện đã có từ xa xưa. Và được thể hiện đầy đủ trong cuộc sống của thanh niên dân tộc Dao Đỏ cho đến ngày nay. Giữa lưng chừng những vách đá còn phủ sương sớm; các chàng trai, cô gái người Dao Đỏ dường như đã hẹn hò từ trước. Họ ngồi bên nhau, trao nhau những lời nói yêu đương, tình tứ. Chờ đến chiều, dường như đã hiểu nhau hơn. Chàng trai cùng với bè bạn của mình bắt đầu “kéo” người mình yêu về làm vợ.
Theo giải thích của người Dao Đỏ, không phải cứ thấy cô gái nào xinh xắn, giỏi giang là kéo về nhà mình làm vợ. Thật ra, trước khi “kéo vợ”, đôi nam nữ đã tìm hiểu nhau rất kỹ. Sau đó rồi ưng nhau. Kéo vợ chỉ là phong tục “bắt buộc phải có” để người con gái chính thức bước chân về nhà chồng. Sau khi bị “kéo” về nhà chàng trai, cô gái được giữ ở trong nhà 3 ngày và vẫn sinh hoạt bình thường. Được cha mẹ chàng trai xem như con cái trong nhà.
Có sự thay đổi trong tục kéo vợ giữa xưa và nay

Sau 3 ngày, nếu ưng thuận, cô gái Dao Đỏ sẽ cắt bớt tóc và trở thành người vợ chính thức trong gia đình, chờ đến khi nào kinh tế khá giả họ mới tổ chức đám cưới. Còn nếu không ưng thì lại trở về nhà mình. Chính vì thế, phong tục “kéo vợ” có tính hợp lý trong sinh hoạt của người Dao Đỏ. Tập tục ấy vẫn là một giá trị văn hóa tinh thần đẹp của người Tây Bắc. Tuy nhiên ngày nay đã bị thay đổi ít nhiều, do “bắt vợ” trước đây là hai bên đã có hẹn ước từ trước. Còn ngày nay “bắt vợ” diễn ra ngay khi không được đồng ý. Vì vậy các giá trị văn hóa cần phải được gìn giữ và giữ nguyên vẹn.