Cúng giỗ là phong tục quan trọng của người Việt Nam nhằm tưởng nhờ đến những người đã khuất. Tục lệ cúng giỗ đã xuất hiện từ lâu đời và trải dài trên khắp các tỉnh thành của đất nước. Đây vừa là ngày để con cháu báo hiếu, thể hiện lòng thành kính với ông bà, tổ tiên đồng thời cũng là dịp những người trong dòng họ sum vầy, thắt chặt quan hệ tình cảm. Chính vì vậy, tục lệ cúng giỗ đã trở thành một nét đẹp văn hóa trong đời sống của người Việt. Nó thể hiện truyền thống “Uống nước nhớ nguồn” và nhắc nhớ con cháu nhớ tới công ơn sinh thành dưỡng dục của tổ tiên, ông bà, cha mẹ.
Ngày giỗ là gì?
Ngày giỗ còn gọi là húy nhật hay kỵ nhật, là ngày mất của một người tính theo âm lịch, là dịp để con cháu và người thân hàng năm tổ chức cúng cơm tưởng nhớ đến người đã khuất, đồng thời cùng nhau gặp mặt nhận họ nhận hàng và bàn bạc những công việc chung của gia đình, dòng họ.
Tục lệ cúng giỗ được coi là việc báo hiếu, là ngày con cháu tưởng nhớ đến công lao sinh thành, xây nền đắp móng của các bậc tổ tiên, và để cầu xin vong linh các bậc tiền bối phù hộ độ trì cho con cháu, cho gia đình, dòng họ.
Vào ngày đó, ngoài việc thăm phần mộ, tuỳ gia cảnh và tuỳ vị trí người đã khuất mà cúng giỗ. Trong ngày này, người ta thường tổ chức ăn uống. Nên mới gọi là ăn giỗ, thì cũng là trước cúng sau ăn. Cũng là để cho cuộc gặp mặt đậm đà ấm cúng. Kéo dài thời gian sum họp, kể chuyện tâm tình, chuyện làm ăn. Với ý nghĩa “Uống nước nhớ nguồn”. Việc đó có thể xếp vào loại thuần phong mỹ tục.

Những ngày quan trọng trong cúng giỗ
Ngày giỗ theo âm Hán là huý nhật hay kỵ nhật. Tức là lễ kỷ niệm ngày mất của tổ tiên, ông bà, cha mẹ. Cũng có nghĩa là ngày kiêng kỵ
Nguyên ngày trước, “Lễ giỗ” gọi là “Lễ chính kỵ”. Chiều hôm trước lễ chính kỵ có “lễ tiên thường” (nghĩa là nếm trước). Con cháu sắm sanh một ít lễ vật, dâng lên mời gia tiên nếm trước.
Ngày xưa, những nhà phú hữu mời bà con làng xóm ăn giỗ cả hai lễ tiên thường và chính kỵ. Dần dần hoặc vì bận việc hoặc vì kinh tế hoặc vì thiếu người phục dịch. Người ta giản lược đi, chỉ mời khách một lần. Nhưng hương hoa, trầu rượu vẫn cúng cả hai lễ.
Tóm lại, nếu vận dụng đúng phong tục cổ truyền phổ biến trong cả nước về tục lệ cúng giỗ thì trước ngày chết (lễ tiên thường) phải cúng chiều. Cúng đúng ngày chết (lễ chính kỵ) phải cúng buổi sáng.
Cúng giỗ mấy đời thì dừng lại?
Theo gia lễ: “Ngũ đại mai thần chủ”, hễ đến năm đời thì lại đem chôn thần chủ của cao tổ đi mà nhấc lần tằng tổ khảo lên bậc trên rồi đem ông mới mất mà thế vào thần chủ ông khảo.
Theo nghĩa cửu tộc (9 đời): Cao, tằng, tổ, phụ (4 đời trên); thân mình và tử, tôn, tằng tôn, huyền tôn (4 đời dưới mình). Như vậy là chỉ có 4 đời làm giỗ (cao, tằng, tổ, phụ). Tức là kỵ (hay can), cụ (hay cố), ông bà, cha mẹ. Từ “Cao” trở lên gọi chung là tiên tổ thì không cúng giỗ nữa. Mà nhập chung vào kỳ xuân tế, hoặc phụ tế vào ngày giỗ của thuỷ tổ.

Thừa tự và tục cúng hậu
Những người đã đến tuổi thành thân, thành nhân. Nhưng khi chết chưa có vợ hoặc mới có con gái, chưa có con trai. Hoặc có con trai nhưng con trai cũng chết. Trở thành phạp tự (không có con trai nối giòng). Những người đó có cúng giỗ. Người lo việc giỗ chạp là người cháu (con trai anh hoặc anh ruột) được lập làm thừa tự. Người cháu thừa tự được hưởng một phần hay toàn bộ gia tài của người đã khuất. Sau khi người thừa tự mất thì con cháu người thừa tự đó tiếp tự.
Ngày nay tục cúng hậu từ lâu đã không còn tồn tại nữa. Việc thừa tự cũng đã khác xưa. Những người được thừa hưởng tài sản của người mất theo luật thừa kế, không phân biệt con trai hay con gái đều có trách nhiệm chăm lo hương khói, giỗ chạp cho cha mẹ, ông bà.
Việc thờ cúng những người chết yểu
Những người chết khi chưa đến tuổi thành thân (nam dưới 16, nữ dưới 13). Sau khi hết lễ tang yết cáo với tổ tiên xin phụ thờ với tiên tổ. Những người đó không có lễ giỗ riêng, ai cúng giỗ chỉ là ngoại lệ. Có những gia đình bữa nào cũng xới thêm một bát cơm, một đôi đũa đặt bên cạnh mâm. Coi như người thân còn sống trong gia đình. Ðiều này không có trong gia lễ nhưng thuộc về tâm linh, niềm tưởng vọng đối với thân nhân đã khuất.